Thứ Tư, 25 tháng 11, 2009

59. CẢM XÚC KHÔNG TÊN



CẢM XÚC KHÔNG TÊN


Hay thơ trăng mới xuống trần
Thơ hòa với rượu đôi vần mời trăng
Lỡ làng nỗi hẹn trăm năm
Thôi thì uống cả vầng trăng cho tròn
[@more@]
Ngày xưa ngắm ánh trăng non
Nửa đau mình nhận, mỏi mòn ta mang
Ngắm trăng, trăng vỡ, tình tan
Hương phai, phấn nhạt, lửa tàn, hồn tê

Say nghiêng quên cả lối về
Bọt bèo tan biến ê chề ánh trăng
Say cho gió lộng mưa giăng
Say cho bến cách sông ngăn một thời

Long lanh vời vợi người ơi!
Trăng hòa với rượu đầy vơi chưa chừa
Men nồng rối rắm tình xưa
Thôi thì uống cạn cho vừa lòng nhau

Ngất ngây say ánh trăng sầu
Tình sau ta ở, tình đầu người quên?
Uống cho hết nợ vơi duyên
Lịm trong vô vọng nhớ, quên đôi bờ...

Say cho bay bổng hồn thơ
Say cho câu chữ ngẩn ngơ ý lời
Mai sau cuối đất cùng trời
Trăng ơi! người ngắm rã rời vì trăng !

Hoahuyen (59)

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2009

Xướnghọa-ThểthơĐườngluật ( Hoahuyen 1 )

Nhân dịp ngày Nhà giáo Việt Nam 20.11 - Hoahuyen xin mở chuyên mục Xướng họa Thơ Đường luật, một thú chơi tao nhã của các bậc tiền nhân xưa... nay vẫn đang nở rộ trên cả nước nhất là những người cao tuổi thường dùng thể thơ này để rèn tâm, trí, đức và thù tạc, phản ánh một phần đời sống tinh thần phong phú " Sống vui, sống khỏe, sống có ích cho đời "... góp phần gìn giữ vốn cổ... kính mong được các bậc cao thâm và các thi hữu gần xa hửng ứng.

Hoahuyen

Thơ mời họa
undefined
TRỌNG TRÁCH TRÊN VAI

Trí thức hơn nhau ở cái đầu
Khả năng hiểu biết rộng và sâu
Nói hay buông chữ tròn xoe nghĩa
Viết sắc rơi từ nhói buốt câu
Giỏi hướng tương lai dân sớm thịnh
Tài xoay hiện tại nước nhanh giầu
Thuyền ra biển lớn cần tài đức
Trọng trách trên vai bắc nhịp cầu

Laonong(458)
(Hoahuyen)

TRỌNG TRÁCH TRAO AI?

Món này khó gặm ít người chơi!
Dẫu đã nỉ năn gẫy đũa mời
Vướng luật câu từ... văn rối rắm
Vướng niêm ý tứ... chữ tơi bời
Lão niên thì thích khen tinh tuý
Lớp trẻ toàn chê bảo dở hơi
Trọng trách trên vai... gánh thế?
"Giữ gìn bản sắc..." Việt nam ơi!


Hoahuyền


Bài họa 1
NHỮNG CHUYẾN ĐÒ NGANG

Mỗi chuyến đò ngang vẫn đứng đầu
Quản gì sóng cả với nông sâu
Dòng tâm luôn thắm tươi màu chữ
Nguồn đức vẫn đầy thắp sáng câu
Trọn nghiệp vun trồng không hám lợi
Suốt đời dâng hiến chẳng ham giầu
Miệt mài chở chữ qua sông lớn
Mỗi chuyến đò sang tựa chiếc cầu.

Lươngthephiet
19.11.2009




Bài họa 2
Khai đường sáng

Mấy mươi năm đã nhuốm sương đầu
Thầy vẫn tận lòng ước vọng sâu
Giúp trẻ dày công mài chữ nghĩa
Nắm tay gò viết đẹp từng câu
Mai sau đất nước thêm hưng thịnh
Ngày đến muôn nơi được sướng giầu
Phía trước dù muôn vàn lối khó
Khai đường tâm vững hướng qua cầu

đông hòa Nguyễn Chí Hiệp
20.11.2009






Bài họa 5
KHÔNG ĐỀ 1

Thầy Cô gương sáng - Đức làm đầu,
Nghĩa lớp , tình trường mãi nặng sâu.
Đãi cát tìm vàng rèn đẹp chữ,
Khai tâm mở trí luyện hay câu.
Lòng mong lớp trẻ nhanh tài đức,
Dạ muốn non sông sớm mạnh giàu.
Bởi vậy Thầy Trò luôn gắng sức
Bền gan vững chí vượt qua cầu!

Võ Ngọc Sơn






Bài họa 3
LÃNH ĐẠO

Lãnh đạo là luôn biết dẫn đầu
Hướng vào lĩnh vực mới cao sâu
Đón đầu xu thế không cần đợi
Đi trước nhu cầu lọ phải câu
Tỉnh táo thì đâu đến nỗi hố
Cao mưu chắc hẵn sẽ mau giầu
Thị trường mới đúng nơi rèn luyện
Tài cán cần ai bắc hộ cầu

Hồ Văn Thiện
20.11.2009



Bài họa 4
GHI TẠC CÔNG THÀY CÔ

Thày ban Trí Đức, tích trong đầu
Ngẫm lại cả đời ý thật sâu
Trước học lễ nghi thông vạn lẽ
Sau rèn chữ nghĩa thấm từng câu
Nhân tài giúp nước yên bờ cõi
Tiềm lực xây non Tổ Quốc giầu
Ghi tạc công ơn thày dạy dỗ
Khai nguồn trí tuệ sánh toàn cầu

hadinhchung
20.11.2009



Bài họa 6
KHÔNG ĐỀ 2

Cái gì ai cũng đặt trên đầu ?
Cao chóp rộng xòe khoét lõm sâu
Mắt lớn che nghiêng thò mũi quặm
Tai to úp xéo ló cằm câu
Ngày thường vênh váo khoe môi quý
Tháng hạn lấm le giấu trán giàu
Mưa nắng tiết thời nào biết được
Lỡ mai gió lớn tọt rơi cầu

Bs Tản
Học trò trường thuốc
Bài họa 7

Tài Trí

"Trọng Trách Trên Vai"
hẵn đứng đầu
"Đò Ngang bác Phiệt" ý thâm sâu
Văn chương gói gọn năm ba chữ
Ngữ nghĩa trang đầy mấy chục câu
"Lãnh Đạo" khôn ngoan ban quyết sách
Nhân dân hạnh phúc hưởng sang giàu
Thi thơ chính trị như nhau cả
Trí thấp tài ương chớ cưỡng cầu

Phieuvan_Thlangdu

Bài họa 8

Đồ giả

Muốn làm học giả ngẩng cao đầu
Bằng cấp thầy mua mộc đỏ sâu
Ra huyện khoe mình rằng học tốt
Đến trường viết chữ chẳng thành câu
Cửa công múa bút lòe cu nhỏ
Về xóm khua trương hách kẻ giầu
Đến lúc khui ra bằng giảo mạo
Đêm khuya ông đã nhảy qua cầu
( tự vận á )

donghoa nguyenchihiep

Bài họa 9

Tự trào Đường Thi
Họa cùng "Trọng Trách Trao Ai?".

Lúc trắc khi bằng há giỡn chơi
Không thông hạn luật dễ đâu mời
Mù mờ tự loại câu toang toác
Chệch choạng vần niêm tứ rối bời
Đĩnh đạc thâm trầm còn thiếu chữ
Cuồng ngông lấc cấc hẵn thừa hơi
Đường Thi chắt lọc bao tinh túy
Xét lại thơ mình thấy hỡi ơi


Phieuvan_Thlangdu


Bài họa 10
XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG




Xướng họa xem ra thấy nhẹ đầu

So chi cao thấp luận khơi sâu

Mong mang nhân ái gieo thi phú

Nguyện lấy vô thường dệt chữ câu

Ẩn sĩ khinh danh đời tạo phúc

Cao nhân luyện đức nghiệp thêm giàu

Tương giao thơ cổ thần an tọa

Bạn hữu dung hòa trộm khấn cầu.

NICO






BÌNH THƠ: BÀI HỌA CỦA HADINHCHUNG

Anh hadinhchung kính, đây là một vài ý kiến nhanh của hoahuyen đối với bài họa của anh:



GHI TẠC CÔNG THÀY CÔ



Thày ban Trí Đức, tích trong đầu

Ngẫm lại cả đời ý thật sâu

Trước học lễ nghi thông vạn lẽ

Sau rèn chữ nghĩa thấm từng câu

Nhân tài giúp nước yên bờ cõi

Tiềm lực xây non Tổ Quốc giầu

Ghi tạc công ơn thày dạy dỗ

Khai nguồn trí tuệ sánh toàn cầu



hadinhchung



Trong tất cả các bài thi hữu gần xa đã họa thì “ GHI TẠC CÔNG ƠN THÀY CÔ” của Nhà thơ hadinhchung có lẽ theo ý kiến rất riêng ( có thể khác với cảm nhận của một số bạn ) là bài họa hay nhất vì những lý do sau :



* Họa = vẽ lại một bức tranh khác cùng đề tài ( có thể đẹp hoặc xấu hơn là do tài năng của người “họa” và có thể đối nghịch lại cả “người xướng” )



* Bài họa đối luật, không phản đề vì : “ Bài họa đã diễn đạt lại được toàn bộ ý chính (nội dung) của bài xướng, không lạc đề. đối luật với bài xướng, vì bài xướng luật trắc - bài họa của Bác hadinhchung luật bằng, họa cùng một tư tưởng đánh giá cao vai trò của trí thức và Nhà giáo đối với xã hội…. Nghiêm túc xét về luật : đây là bài chắc luật, vững liêm, họa và đối khá chỉnh, khó bắt bẻ, 56 chữ chỉ có 2 chữ trùng lặp đó là chữ “Thày” nhưng là 2 chữ “đắt” đúng chỗ, nhấn mạnh và khẳng định vài trò của người Thày trong việc trồng người



Trước hết ta xem 2 câu đề :



Thày ban Trí Đức, tích trong đầu

Ngẫm lại cả đời ý thật sâu




Nhiệm vụ chính của người Thày là dạy học và rèn người. dạy học là cho “chữ” tức là cho iến thức để làm hành trang vào đời, mặt khác thày cô còn có nhiệm vụ cực kì quan trọng đó là rèn rũa hình thành nhân cách… đạo đức của học sinh để thực sự trở thành CON NGƯỜI đúng nghĩa có ích cho xã hội – 2 câu đề quá rõ ý, mạch lạc câu văn…


Tiếp 2 câu thực : tả thực những việc mà nghề nhà giáo đã được xã hội quy định



Trước học lễ nghi thông vạn lẽ

Sau rèn chữ nghĩa thấm từng câu




“Tiên học lễ hậu học văn” – muốn làm NGƯỜI trước phải thông lễ nghi, hiểu vạn lẽ, uốn nắn từ việc đi, đứng, nói năng, chào hỏi, thưa gửi, kính trên nhường dưới dần dần hình thành con người “đối nhân xử thế chu toàn”
Sau học chữ, tích lũy kiến thức để thấm và ngấm từng câu… có ý muốn nói học đến nơi, đến chốn, hiểu cặn kẽ từng vấn đề một cách thấu đáo, khoa học, tránh hời hợt….



Tiếp 2 câu luận :

Nhân tài giúp nước yên bờ cõi

Tiềm lực xây non Tổ Quốc giầu



Một lời bình hay : Khi là người đã có tâm tầm trí, đức thì hằn đó là hiền tài giúp nước cũng chính là tiềm lực xây dựng tổ quốc giàu mạnh – một người hoàn chỉnh lý tưởng có lẽ cần hội đủ các yếu tố:
• Tâm trong sáng – Đức cao đẹp - Trí uyên bác – Hành mẫu mực và sống “ cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư “ ( hehehe, khó nhỉ )



Tiếp 2 câu kết :

Ghi tạc công ơn thày dạy dỗ

Khai nguồn trí tuệ sánh toàn cầu



Có lẽ không cần bình nữa vì nó đã rõ như ban ngày
Một bài họa thơ đường chỉnh, hay, có tầm tư tưởng lớn, câu văn chau chuốt, bay bổng... chúc bác hadinhchung nhiều cảm xúc cho nàng thơ


Hoahuyen

22.11.2009

Một số kiến thức cơ bản cần thiết về
CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT

» Tác giả: ...
» Dịch giả:
» Thể lọai:
Biên khảo
» Số lần xem: 276

1. CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT


Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận.


1.
HỌA HẠN VẬN:
Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải:
- Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn. ...


- Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định.


Thí dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:
a.
Đầu đề (nội dung) là:


Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô


b.
Năm vần hạn định theo thứ tự là: xô - cô - vô - ô - rô.
Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu !!!
... như sau đây:


Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi gióng nhảy rô



Còn có một lối hoạ hạn vận rất khó. Hoàng Thứ Lang kể lại một câu chuyện như sau:
Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đão Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:
- Đầu đề: Xuân Khuê
- Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ
- Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh:


Xuân Khuê


Một mong hai đợi bốn ba chờ
Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ
Nửa gối năm canh gà gáy giục
Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa
Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ
Chín khúc bên lòng vạn mối tơ
Ngàn trượng thành sầu đo thước khó
Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ


Phan Mạnh Danh



2.
HỌA PHÓNG VẬN
Họa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).


Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.
a. Họa Nguyên Vận: là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật.
b. Họa Đảo Vận: là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên.
c. Họa Hoán Vận: là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.
d. Họa Tá Vận: Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm.



CHÚ Ý QUAN TRỌNG: Trong thể thức Họa Vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng. Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1-2-4-6-8 của bài xướng. Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt không thể tránh được.
Hoạ Thơ bao gồm 2 phần chính quan trọng sau đây:
Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng. Bài xướng có thể chọn 1 bài đã có sẵn từ xưa, từ trước, hoặc 1 bài do 1 người khác làm trước "thách đố" cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài reply đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:
1. Họa vần: 5 vần tức là 5 tiếng (chữ) cuối của các câu 1-2-4-6-8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi. Chỉ cần sai 1 trong vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, dĩ nhiên bài họa đó bị Fail.2. Bài xướng nói lên ý (main idea) gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp). Thí dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại.4. Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen 1 vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).Tóm lại 3 yếu tố 1-2-3 là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc.Sau đây là một thí dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học Việt Nam.
Bài Xướng:


TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Tôn Thọ Tường)


Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng



Bài Họa:


TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Phan Văn Trị)


Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng


Những bài thơ minh họa cho các thể thức Họa Thơ.
1.
HOẠ HẠN VẬN:
Thí dụ:


- Hạn đề:
"Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô"


- Hạn vận:
Xô - Cô - Vô - Ô - Rô


Bài họa:


Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi giống nhảy rô



2. HỌA PHÓNG VẬN:
Thí dụ 1:


a.
Họa nguyên vận:


Bài xướng:


TƯƠNG TƯ


Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi


Hoàng Thứ Lang
11/8/05



Bài họa:


TƯƠNG TƯ


Mỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơi
Về đâu trên vạn nẻo đường đời
Mưa buồn đổ mãi mưa buồn hỡi
Tuyết trắng rơi hoài tuyết trắng ơi
Muốn nhắn đôi câu mà nghẹn ý
Mong trao mấy tiếng lại ngăn lời
Dòng sông ly biệt nào chia lối
Ngắm dải Ngân Hà đếm lệ rơi


Hoàng Thứ Lang
11/8/05


b. Họa đảo vận:


Bài xướng:


TƯƠNG TƯ


Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi


Hoàng Thứ Lang
11/8/05



Bài họa:


TƯƠNG TƯ


Lất phất bên thềm tuyết trắng rơi
Niềm riêng ấp úng chẳng nên lời
Hai hàng lệ tủi than trời hỡi
Một áng thơ sầu khóc bạn ơi
Rẽ yến chia oanh hờn số kiếp
Lìa loan rã phụng lỡ duyên đời
Sông Tương uống cạn dòng thương nhớ
Giang vĩ giang đầu đứa mỗi nơi


Hoàng Thứ Lang
11/8/05


c. Họa Hoán Vận:


Bài xướng:


TƯƠNG TƯ


Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi


Hoàng Thứ Lang
11/8/05



Bài họa:


TƯƠNG TƯ


Gởi gió nhờ mây nhắn mấy lời
Trao người yêu dấu của tôi ơi
Đường mơ vạn nẻo đành riêng lối
Bến mộng đôi bờ phải khác nơi
Bóng chiếc phòng đơn sầu lệ đổ
Đèn khuya gác vắng tủi châu rơi
Ai xui hai đứa mình dang dở
Chẳng trọn cùng nhau suốt cuộc đời


Hoàng Thứ Lang
11/8/05


d. Họa Tá Vận (mượn vần):


Bài xướng:


TRUNG THU


Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm
Tháng tám chờ trông đến bữa rằm
Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng
Cha làm trống ếch đánh quanh năm
Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh
Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm
Chiếc lá chao mình trong gió sớm
Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm


Hoàng Thứ Lang
Oct 05, 2006



Bài họa:


XIN XĂM


Mẹ dẫn lên chùa để thỉnh xăm
Hôm nay trăng sáng đúng đêm rằm
Cầu xin phúc lộc vào nguyên tháng
Khấn nguyện bình an đến trọn năm
Giữa Hạ oi nồng đừng nắng gắt
Trung Thu mát mẻ chớ mưa dầm
Đưa tay vói rút ồ hên quá
Thượng thượng ngon lành chẳng bị âm


Bạch Mai
Oct 06, 2006


Hoạ thơ Đường luật


Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng.


Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú.
Nếu thể thơ thất ngôn bát cú thì toàn bài có năm vần là chữ cuối cùng của các câu 1, 2, 4, 6, 8.
Những chữ vần thường là thanh bằng (có một số bài làm theo vần trắc, thì các chữ ở vị trí này là thanh trắc).


Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối.


Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc "khắc lục", là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.


Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề.


Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.
Thí dụ:


Bài xướng:


Vườn rau Cẩm Tú


Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang
Cẩm Tú đem phân ủ mấy hàng
Củ cải gieo gần dây mướp đắng
Su hào tỉa cạnh gốc khoai lang
Thì là diếp cá lên muôn lối
Húng đổi cần tây mọc khắp đàng
Tứ phía rau xanh nhìn mát mắt
Tha hồ cải thiện bữa ăn...
sang


Cẩm Tú



Bài hoạ::


Vườn rau Cẩm Tú


Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang
Rau xanh thẳng tắp rất ngay hàng
Ngò om óng mượt bên giàn mướp
Húng quế thơm lừng kế luống lang
Bí rợ tần ô lên bít lối
Dưa leo ớt hiểm mọc đầy đàng
Chiều chiều đứng ngắm lòng thanh thản
Cuộc sống quê nghèo ngẫm lại...
sang


Hoàng Thứ Lang


Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1-2-4-6-8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước.
5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng.Coi như bài hoạ là bản copy những nét căn bản về ý và vần của bài xướng, vì vậy bài hoạ phải cùng một tựa đề với bài xướng.Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải dễ dàng như nhiều người đã lầm tưởng !Hoạ sai một vần gọi là xuất vận: không được.Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý: không được.
--

Bài đọc thêm


Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó.
Người ta xướng ra mình phải đối đáp lại, vì vậy nếu chỉ một bài xướng và một bài hoạ thì bài hoạ bắt buộc phải đối luật với bài xướng. Thí dụ bài Tôn Phu Nhân Qui Thục xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Phan Văn Trị.Trường hợp bất khả kháng không thể đối luật được thì có thể châm chế hoạ đồng luật, nhưng bài hoạ đồng luật sẽ bị giảm giá trị vì không đáp ứng đúng thể thức xướng hoạ đúng cách.Bắt đầu những bài hoạ sau đó (nếu có) thì có thể dùng luật gì cũng được.
Hoạ thơ là "vẽ lại" hình ảnh của bài xướng cho nên phải trung thực với bài xướng về ý cũng như vần.
Hoạ sai ý bài xướng là không đạt.Hoạ sai bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất vận: không đạt. Xuất vận là đi ra khỏi sự hạn định về vần của bài xướng.Hoạ sai nghĩa bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất ý: không đạt. Xuất ý là đi ra khỏi ý nghĩa chữ vần của bài xướng.
Hoạ thơ Đường luật đúng cách rất khó.


Khi bạn bè (thi hữu) chung vui xướng hoạ với nhau, có thể dùng thể thức Hoạ Tá Vận (tức là mượn vần) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách nầy không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui vẻ mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề (nội dung của bài xướng). Thí dụ bài Cảm Vịnh Cây Mai xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Đông Hồ.
Lấy thí dụ tử vận xót xa không thể nào hoạ nguyên vận theo chính hoạ được. Chúng ta có thể hoạ tá vận (mượn vần) theo bàng hoạ là xa xa, từ xa, đàng xa v.v... chẳng hạn. Dĩ nhiên là sai nghĩa của chữ xót xa rồi (bởi vậy mới bị xuất ý: không đạt), nhưng cốt để cùng nhau vui vẻ mà thôi.
Chúng ta học thơ Đường luật chính thể, cho nên phải học kỹ về chính luật, chính vận, chính đối, chính hoạ.


Thông vận, bàng đối và bàng hoạ...
không xuất sắc.
Làm thơ, nếu dùng thông vận thì nên dùng cận vận mà không nên dùng viễn vận. Viễn vận và cưỡng vận không hay, hạn chế dùng.
Luật bất luận trong thơ Đường luật chính thể


Người xưa đã nghiên cứu, cân nhắc rất kỹ càng chu đáo khi đặt ra luật thơ chính luật cho thơ Đường luật. Theo chính luật thì bài thơ sẽ có âm điệu du dương trầm bổng đọc hoặc ngâm nga rất êm tai truyền cảm. Thơ không phải chỉ để đọc mà còn để ngâm vịnh nữa, cho nên âm điệu rất quan trọng vì nó tạo ra nhạc tính cho bài thơ. Do đó người ta nói trong thơ có nhạc trong nhạc có thơ là bởi lẽ đó. Bài thơ mà không tuân theo thanh luật tức là luật về âm thanh hay nói khác đi nếu bài thơ mà không tuân theo luật thơ khi đọc lên thì nghe rất chỏi tai, ngâm vịnh thì bị chỏi miệng trẹo lưỡi mà trong thơ gọi là khổ độc.Tuy nhiên trong một vài trường hợp đặc biệt, có những chữ không thể sửa đổi để khép vào khuôn khổ của luật thơ (chính luật) được. Đó là những chữ thuộc về thành ngữ, điển tích, chuyên ngữ, thuật ngữ, danh từ riêng ... Vì vậy mà người ta đặt thêm luật bất luận để áp dụng cho những trường hợp đặc biệt này. Nhưng luật bất luận cũng có sự qui định chặt chẽ phải tuân theo một cách nghiêm ngặt không thua gì chính luật.Một vài thí dụ về thành ngữ, điển tích, chuyên ngữ, thuật ngữ, danh từ riêng không thể sửa theo chính luật được, như sau:


- Thành ngữ: tang điền thương hải, học tài thi mạng, tháo củi sổ lồng ...


- Điển tích: kết cỏ ngậm vành, nghiêng nước nghiêng thành, bình rơi trâm gãy ...


- Chuyên ngữ, thuật ngữ: tam bộ cửu hậu, tứ chẩn bát cương, cữu hư hoãn bổ ...


- Danh từ riêng: Mỵ Châu, Thúy Kiều, Kim Trọng, Đạm Tiên, Bá Nha, Tử Kỳ ...



So sánh đối chiếu với chính luật:


- Thành ngữ: non thề biển hẹn, quốc phá gia vong, nhà tan cửa nát ...


- Điển tích: cử án tề mi, thiên kiều bá mỵ, chim sa cá lặn, hoa tường liễu ngõ ...


- Chuyên ngữ, thuật ngữ: tứ chứng nan y, đau chân há miệng, bảng hổ danh đề ...


- Danh từ riêng: Ngưu Lang, Chức Nữ, Trương Chi, Trọng Thủy, Lưu Thần, Nguyễn Triệu ...



Vì những sự kiện đặc biệt như đã dẫn chứng trên nên luật bất luận được ra đời để áp dụng cho những từ ngữ đặc biệt không thể sửa đổi này.


Sau đây là bảng luật bất luận cho thơ Đường luật chính thể:


1.
LUẬT BẰNG VẦN BẰNG:


b - B - t - T - T - B - B (vần)
t - T - b - B - T - T - B (vần)
t - T - b - B - B - T - T (đối câu 4)
b - B - t - T - T - B - B (vần) (đối câu 3)
b - B - t - T - B - B - T (đối câu 6)
t - T - b - B - T - T- B (vần) (đối câu 5)
t - T - b - B - B - T - T
b - B - t - T - T - B - B (vần)



2.
LUẬT TRẮC VẦN BẰNG:


t - T - b - B - T - T - B (vần)
b - B - t - T - T - B - B (vần)
b - B - t - T - B - B - T (đối câu 4)
t - T - b - B - T - T - B (vần) (đối câu 3)
t - T - b - B - B - T - T (đối câu 6)
b - B - t - T - T - B - B (vần) (đối câu 5)
b - B - t - T - B - B - T
t - T - b - B - T - T - B (vần)



Ghi chú quan trọng:


- Những chữ viết hoa đứng ở vị trí 2-4-5-6-7 của mỗi câu bắt buộc phải giữ theo đúng chính luật.
- Những chữ viết thường đứng ở vị trí thứ 1-3 không bắt buộc phải giữ đúng theo chính luật. Tuy nhiên chỗ mà theo chính luật là trắc ta làm ra bằng thì không sao nhưng chỗ mà theo chính luật là bằng thì không nên làm ra trắc. Riêng chữ thứ 1 có thể linh hoạt hơn, gặp chỗ là bằng cũng có thể làm ra trắc nếu không thể tìm ra chữ khác hay hơn để thay thế. Trường hợp bất khả kháng, đối đế lắm cũng có thể áp dụng cho chữ thứ 3 giống như chữ thứ 1, nghĩa là đáng lẽ bằng mà vì kẹt phải làm ra trắc. Tuy nhiên không nên lạm dụng luật bất luận mà làm bài thơ trắc trở không êm tai.Bằng là suông sẻ, trắc là trắc trở, vì vậy chỗ đáng trắc mà làm ra bằng thì suông sẻ, nhưng chỗ đáng bằng mà làm ra trắc thì trắc trở, không nên.
Bài thơ thí dụ làm mẫu để minh hoạ cho luật bất luận:


1.
Luật trắc:


Tôn Phu Nhân Qui Thục
(Bài xướng)


Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Má hồng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng


Tôn Thọ Tường



2.
Luật bằng:


Tôn Phu Nhân Qui Thục
(Bài hoạ)


Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi đông
Khói toả đồi Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cang thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng


Phan Văn Trị


Ghi chú: đây là 2 bài thơ xướng hoạ nổi tiếng trong văn học sử Việt Nam, chúng ta nhận thấy tác giả áp dụng luật bất luận đúng y như trong phần giải thích ở trên, và dùng cũng rất hạn chế.



2009-03-16 11:30:13


Thứ Năm, 19 tháng 11, 2009

438. Hơn nhau ở chỗ TẦM CAO THƯỢNG



438.
Hơn nhau ở chỗ
TẦM CAO THƯỢNG

Chả trách đàn ông giỏi ngứa nghề
Chỉ ham của lạ khoái đồng quê
Hai đầu ngứa ngáy thèm nghiêng ngó
Bốn mắt long lanh thích tỉ tê
Quân tử đàng hoàng têm cánh phượng
Tiểu nhân lén lút thả đàn dê
Hơn nhau ở chỗ tầm cao thượng
Thấy gái anh nào bảo: ... tớ… chê ?

Hoahuyen
19.11.2009

.

Thứ Ba, 17 tháng 11, 2009

433. ĐÊM ĐÔNG VÀO THẾ

Họa Thơ nữ sĩ Hồ Xuân Hương

433.
ĐÊM ĐÔNG VÀO THẾ

Gió se lành lạnh sắp vào đông
Có gã trai lơ mượn chén nồng
Dựng hứng hồn thơ lay cán bút
Hớ hênh thân xác nhạo Càn Long (*)
Pháo đang vào thế chờ cơ hội
Đạn đã lên nòng đón lệnh thông
Dại dột ba năm hờn suối ngọc
Khôn ngoan một tiếng thế là xong

Hoahuyen
(*)

Rượu Càn Long Ngự Dịch được điều chế từ hơn 20 loại dược liệu quý hiếm của Trung Quốc: Đông trùng hạ thảo, thận hải cẩu, lộc biển, nhân sâm, tam thất, ... Một loại rượu bổ quý


Bài xướng
Thiếu nữ ngủ ngày

Muà hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.

Hồ Xuân Hương

418. CÔNG ƠN CHA MẸ, THẦY CÔ

418.
CÔNG ƠN CHA MẸ, THẦY CÔ

Uốn cây từ lúc nẩy mầm non
Rèn chữ o, a... nắn méo tròn
Nhân cách hình thành do giáo dục
Thầy Cô tất cả chỉ vì con

Tri thức mênh mông như biển cả
Lớn khôn thành đạt nhớ ơn thày
Sinh thành dưỡng dục công cha mẹ
Bệ phóng cho con sải cánh bay

Hoahuyen

431. VẦN THƠ DÂNG THẦY CÔ



VẦN THƠ DÂNG THẦY CÔ
Nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20.11

Uốn cây từ lúc cong... non
Hình thành nhân cách khi còn ngây thơ
Cô ươm hoài bão, ước mơ
Thày nâng đôi cánh từng giờ bay cao

Cho tri thức, vượt gian lao
Niềm tin, tâm, đức khát khao làm người
Mười năm chăm tốt cây tươi
Trăm năm mới có lớp người hồng chuyên (*)

Gia đình là chốn bình yên
Nhà trường mảnh đất gieo hiền tài cao
Môi trường xã hội thanh tao
Lung linh hương sắc xiết bao ân tình

Thày cô dạy dỗ hết mình
Cho em tô đẹp dáng hình nước non
Tim em tạc tượng vàng son
"Tôn sư trọng đạo" vuông tròn giấc mơ

Mái đầu nay đã bạc phơ
Trào dâng cảm xúc vần thơ dâng Thày
Nhớ lời Người dậy: trồng cây
Trăm năn lợi ích phải xây trồng người (**)

Hoahuyen (431)
17.11.2009



(*)(**) Ngày 13-9-1958, Bác Hồ đến thăm và nói chuyện tại lớp học chính trị của các giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc. Người căn dặn: " Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm nặng n, nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Tất cả giáo viên chớ nên cho học thế là đủ, mà phải tiếp tục học tập thêm để tiến bộ mãi".



Kỷ niệm ngày hội trường 35 năm gặp lại Thày Cô và bạn học ( 30 tháng 4.2009 )

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2009

28. ƠN THÀY CÔ

28.
ƠN THÀY CÔ
Chúc các Thầy, Cô
Nhân ngày nhà giáo 20/11


Tuổi thơ cắp sách tới trường
Dùng dằng kỷ niệm vẫn còn theo ta
Nhớ thời từng chữ ê, a
”O” tròn như quả trứng gà… nhà em

Chữ ”I” như thể que kem
Rắn toàn nước đá vẫn thèm mấy que
Mái đầu nắng đỏ tóc hoe
Suốt ngày lặn ngụp trên bè, dưới sông

Những ngày hè nghỉ… lông nhông
Trèo me, hái ổi tồng ngồng rong chơi
Nhớ thời đỏ xác phượng rơi
Sân trường ríu rít tiếng cười giòn tan

Câu thơ ai viết trên bàn ?
Chữ lồng tên khắc… gốc bàng còn đây
Bao năm đèn sách đêm ngày
Rèn tâm, trí, đức Cô thày bày cho

Nẩy mầm khao khát ước mơ
Niềm tin cháy bỏng từng giờ… bay cao
Công thành, danh thỏa khát khao
”Tôn sư trọng đạo” ai nào dám quên

Hoahuyen

Thứ Tư, 11 tháng 11, 2009

410. THÈM CŨNG CHỊU

Bài họa
410.
THÈM CŨNG CHỊU

Hớ hênh nom rõ cả hai... đồi
Thây lẩy bồng bềnh dụ dỗ tôi
Giần giật tâm hồn chưa muốn dứt
Lâng lâng thể xác chửa thèm thôi
Khi còn son trẻ vung thừa sức
Để lúc già nua tiếc đứt hơi
Giờ có cho không... ông cũng chịu
Mó may đôi chút gọi là chơi

Hoahuyen




Bai xuong
Gửi ông Lương Hữu Chí

Tạ ông Lương Chí ở trên đồi
Đã có lời mừng sách lẫn tôi
Bốn tập "Bóng chiều" sờ lộm cộm
Bảy mươi "mùa lá" ngó lôi thôi
Cao mèo bạn biếu đà tiêu hóa
Thơ thẩn cụ cho để xả hơi
Bóng xế đã vào hồi chập choạng
Văn vo có tí cũng mần chơi

Hồ Văn Thiện
17-10-2009

.

403. NGHỀ CAO QUÝ


403.
NGHỀ CAO QUÝ

Hai nghề cao quý em ơi!
Lương y - Nhà giáo người đời đều mê
Cổ kim kính cẩn khen, chê
Nghề vì dân chúng tứ bề lo toan

Trồng người vất vả gian nan
Cứu nhân độ thế chứa chan ân tình
Cái nghề phải biết hy sinh
Không màng danh vọng, nhục vinh coi thường

Môi trường... hữu xạ... nhiên hương
Đối nhân xử thế yêu thương thật lòng
Uốn cây từ lúc non cong
Chữa người khỏi bệnh là lòng mừng vui

Hoahuyen

398. LÀ CON GÌ NHỈ ?

398. Thơ đố vui
LÀ CON GÌ NHỈ ?

Hung hăng khi đang đói
Dữ tợn lúc vồ.... người
No nê thường phởn chí
Nhe hàm răng ra cười

Nơi rừng xanh núi thẳm
Chuá tể cuả muôn loài
Vướng vào tờ... hôn thú
Là cụp cả hai tai

Xổng chuồng có vẻ oai
Đố là con gì nhỉ ?

Hoahuyen



Thứ Ba, 10 tháng 11, 2009

395. NẾU BỐ CÒN SAY

Hoạ thơ Lương Thế Phiệt

395.
NẾU BỐ CÒN SAY

Bố ơi! đừng nhậu suốt đêm ngày
Be bét rượu chè… xỉn quắt quay
Quần áo lôi thôi như giẻ rách
Đầu bù tóc rối tựa bèo mây
Tương lai sẽ khổ khi không tỉnh
Hiện tại đang hèn bởi vẫn say
Nghèo rớt mồng tơi, thêm gánh nợ
Vợ con nheo nhóc, xác thân gày

hoahuyen



Bài xuớng

Mẹ

Mẹ đong năm tháng bước qua ngày
Nắng xối mưa gào với gió quay
Khi tính chắt chiu từng hạt nắng
Lúc lo gom nhặt những làn mây
Đầu làng chạng vạng cơn mê tỉnh
Cuối bãi chập chờn giấc ngủ say
Lầm lũi lưng còng run rẻ mạ
Cho con no đủ- mẹ hao gầy

luongthephiet

Thứ Hai, 9 tháng 11, 2009

394. KHIẾU “TẾU”

394.
KHIẾU “TẾU”

Em quả là người khếu "tiếu lâm"
Cười rung cả mắt có duyên ngầm
Gái trai đều thích vì yêu mến
Già trẻ manh nha... lắm dã tâm

Một lần đã gặp quên không nổi
Bốn biển năm châu chẳng lẽ nhầm ?
Quân tử tranh nhau đòi rắc thính(*)
Anh xa yếu vía ngóng âm thầm

Hoahuyen
(*) Cho cá bu quanh ngắm chơi

Thứ Năm, 5 tháng 11, 2009

393. TA ĐI TÌM TA

393.
TA ĐI TÌM TA

Mới hay nhan sắc do trời
Dại khôn na nết do người rèn nên
Vĩ nhân để lại tuổi tên
Ngàn năm danh tiếng vang rền ngân xa

Kẻ thì chết hóa ra ma
Chưa khô dòng lệ hương hoa đã tàn
Long lanh hạt cát này vàng
Hạt kia đen trũi phũ phàng nhom nhem

Người thì chẳng muốn ngợi khen?
Kẻ thì khoan khoái bon chen với đời
Người thì mê mẩn rong chơi
Kẻ thì lăn lộn rối bời ăn thua

Người thì bán thánh buôn vua ?
Kẻ muốn lên chùa đi quét lá đa ?
Còn ta mải miết tìm ta
Hữu danh vô thực là nhà… linh tinh(*)

Đối nhân chỉ có cái tình
Tri âm tri kỷ… nhục vinh coi thường
Vòng tay bè bạn muôn phương
Còn chăng vài chữ nhả hương cho đời

Ta là thế đấy… giàng ơi!

Hoahuyen

(*)các loại nhà : Nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo...

392. SẮC HƯƠNG DÙ NHẠT VẪN YÊU

392.
SẮC HƯƠNG
DÙ NHẠT VẪN YÊU

Chênh chao vành nón nghiêng che
Nắng chan hòa nắng ấp e gợi tình
Mắt ngời khoe dáng eo xinh
Hiền nhân, quân tử rập rình ngó trông

Khôn thì kén vợ chợ đông
Ba quân dễ chọn ra chồng qúy yêu
Ngày lành sáp lại... chung niêu
Chung chăn, chung gối sớm chiều bên nhau

Yêu nhiều nước mắt dễ mau
Ghen tuông khôn khéo vừa đau... thì dừng
Ở đời đôi lúc xỉa xưng
Bát xô, đĩa lệch... cũng đừng âu lo

Đã yêu là hiến dâng cho
Khổ đau ráng chịu... nhằn nhò chi em !?
Khôn ngoan miệng dẻo, môi mềm
Hai đầu phải cứng là êm cửa nhà

Nắng mưa từng đã trải qua
Dù hương có nhạt, sắc nhòa vẫn yêu

Hoahuyen
05.11.2009
***

391. ƯỚC MƠ GIẢN DỊ

391.
ƯỚC MƠ GIẢN DỊ

Tuổi thơ tôi sống ở trên sông
Thèm nếp nhà tranh, bếp lửa nồng
Sáng đến trường làng cô giáo đợi
Chiều về tới ngõ, Mẹ già mong
Dưới giàn thiên lý môi e thẹn
Bên dậu mồng tơi má ửng hồng
Đến tuổi lên đường ra mặt trận
Xa nhau mòn mỏi vẫn phòng không ?

Hoahuyen
05.11.2009

390. VŨ KHÚC GIAO MÙA

390.
VŨ KHÚC GIAO MÙA

Lặng nghe xao xác hương chiều
Tiếng đêm se sắt vơi nhiều phải chi ?
Nhẹ nhàng rảo gót chân đi
Thấy thu lấp ló thương gì nhớ ai?

Thức lâu cả vú đêm dài
Lay hoay tình tự sớm mai sẫm màu
Nói lời xa tít đẩu đâu
Gió se giá lạnh vờn nhau kẽ lùa

Thôi thì ngọt nhạt chanh chua
Vu vơ gom lại thêu thùa ất ơ
Cô đơn nghĩ ngợi vẩn vơ
Cả đời rong duổi khù khờ lại qua

Cầm lòng chẳng đặng vỡ òa
Giọt thương, giọt nhớ nhạt nhòa ấp nhau
Gối chăn thảng thốt nhăn nhàu
Tàn đêm trăng xõa dìu nhau luân hồi

Kìa đông đã đến bên rồi
Rét run lẩy bẩy nắng trôi gió về
Rèm buông kín mít em che
Nhành trơ, nõn nhú thầm nghe túa lùa

Năm canh tiếng mõ nhẹ khua
Thu qua, đông tới te tua nỗi buồn
Sầu lòng chớ ướt mi tuôn
Khi nàng xuân đến u buồn tiêu tan

Hoahuyen
04.11.2009

Thứ Tư, 4 tháng 11, 2009

389. ĐỈNH VUI

Họa thơ Bẩy Thi

389.
ĐỈNH VUI

Vui về hớn hở đùa chen
Buồn bay náo loạn khô hoen ố ngầu.

Vơi đi, đi tất sầu đau
Trời cao biển rộng hay đâu... thế này

Ta mời nàng chén say đây
Vui cho thỏa sức tới ngày vàng khô?

Trâm anh sao lõa dám lồ
Đã qua kiếp nạn môi gồ giòn nong

Lênh đênh bèo dạt xuôi dòng
Đỏ lòe đuôi mép, mắt đong ướt sầu

Qua thời chớt nhả tay gầu
Tát trăng khuya muộn mấy chầu giăng em?

Tiểu nhân thường thích đua chen
Người quân tử kính kề bên nỏ sầu

Dẫu cho tuổi chớm bạc đầu
Buồm tung cánh gió tươi màu trùng khơi

Bên nàng ta chỉ vui thôi
Vần gieo ý thỏa cho Đời- Tình - Thơ!

Hoahuyen

388. TÍCH CŨ CHUYỆN XƯA


388.
TÍCH CŨ CHUYỆN XƯA
( Tiên Dung - Chử Đồng Tử )

Tích cũ ngày xưa chuyện dưới trần
Có nàng công chúa cưới bần dân
Tiên Dung đang tắm quen giai chử(1)
Đồng tử cởi truồng gặp mỹ nhân
Duyên kết se duyên sung sướng đến
Phước gieo mầm phước khổ xa dần
Mới hay số phận do trời định
Đến cõi bồng lai cũng rất gần

Hoahuyen
04.11.2009
(1) Trai làng Chử Xá
***

Tương truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại Chử Xá (huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (có bản viết là Chử Vi Vân. Theo "Việt sử Giai Thọai" của Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo dục).Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.

Thời ấy vua Hùng Vương thứ ba có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.

Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập,phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung-Chử Đồng Tử làm chúa (Theo "Việt sử Giai Thọai" của Nguyễn Khắc Thuần-NXB Giáo dục). Một hôm có người bày cho cách ra ngòai buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Tiên (có bản ghi là Quỳnh Vi - tham khảo "Việt sử Giai thọai" Chuyện kể Chử Đồng Tử) Đây là tên một ngọn núi chỉ có trong thần thọai),Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.

Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dân hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.

Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời.Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.

Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là chợ Hà Thị.

387. GHÉ THĂM LỤC BÁT MÀ SAY

387.
GHÉ THĂM
LỤC BÁT MÀ SAY

Ghé thăm lục bát mà say
Chạm vần như thể ớt cay, cay sè

Lượn qua, lượn lại nhăm nhe
Con tim lọan nhịp ngo ngoe phập phồng

Biết nàng thơ "lục"… chưa chồng
Vào thăm chỉ "bát" xa trông lại về

Tần ngần chẳng dám a… ê
Quay đi thì tiếc tái tê u sầu

Long đong chìm nổi bể dâu
Đành liều cũng lục vài câu bát à

Hoahuyen

Thứ Ba, 3 tháng 11, 2009

386. Đá bỗng gieo vần

386.
Đá bỗng gieo vần

Thiên nhiên sắp đặt mấy ai ngờ
Đá bỗng gieo vần nẩy ý thơ
Giây phút thăng hoa giần giật đến
Nôn nao cảm xúc sóng xô bờ

Núi non uyên bác tài xiên xỏ
Chớp(*) thế hiên ngang cảnh ỡm ờ
Dám hỏi ai nhìn không nổi hứng ?
Này em đừng ngắm… dễ nằm mơ

Hoahuyen
02.11.2009


(*)Đây là bức hình do Lão hâm ( PCT ) chụp trong chuyến cùng cả gia đình hành hương ngao du “Đảo Kê Gà thuộc xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận”

Mời xem thêm bài của anh PCT ở đây

***

Thứ Hai, 2 tháng 11, 2009

385. HÃY MAU TỈNH NGỘ



385.
HÃY MAU TỈNH NGỘ

Khi thông tin một phiá
Nghe và nói xuôi chiều
Như ếch ngồi đáy giếng
Lại cứ ngỡ mình siêu

Xếp huênh hoang vỗ ngực
Rằng ta hiểu biết nhiều
Vung tay năm ngón chỉ
Làm như vượn, như hươu

Thế giới luôn biến động
Cứ ngu dốt… làm liều
Tư duy không thay đổi
Rồi có ngày cũng tiêu

Hoahuyen

Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2009

671. Hội ngộ tri âm



671.
Hội ngộ tri âm


Một buổi nhâm nhi, nói chuyện đời
Nỗi niềm chia sẻ mãi không vơi
Thơ văn, thế sự, tinh thần sống
Con cái, bạn bầu, kiểu cách chơi
Triết lý nhân sinh... xoay số phận
Giản đơn quy luật... lựa thiên thời
Lắng nghe sàng lọc bao điều lạ
Đến phút chia tay chẳng muốn rời

Hoahuyen
01.11.2009
(*) Kỷ niệm lần gặp gỡ anh PCT với anh em hội blogers Saigon
trưa 31.10.2009 và một buổi chiều đầy ấn tượng khi chỉ còn 3 anh em
(Lãohâm uyên bác, Ts Hoàng Kim "người tốt một cách cổ điển còn sót lại"
và Hoahuyen lãng tử ) tâm tình cho đến 19h30 trước khi lão hâm bay ra hanoi


Mời các bạn xem bài : " Đã mến yêu nhau chẳng muốn rời "