CẢM XÚC KHÔNG TÊN
Hay thơ trăng mới xuống trần
Thơ hòa với rượu đôi vần mời trăng
Lỡ làng nỗi hẹn trăm năm
Thôi thì uống cả vầng trăng cho tròn
[@more@]
Ngày xưa ngắm ánh trăng non
Nửa đau mình nhận, mỏi mòn ta mang
Ngắm trăng, trăng vỡ, tình tan
Hương phai, phấn nhạt, lửa tàn, hồn tê
Say nghiêng quên cả lối về
Bọt bèo tan biến ê chề ánh trăng
Say cho gió lộng mưa giăng
Say cho bến cách sông ngăn một thời
Long lanh vời vợi người ơi!
Trăng hòa với rượu đầy vơi chưa chừa
Men nồng rối rắm tình xưa
Thôi thì uống cạn cho vừa lòng nhau
Ngất ngây say ánh trăng sầu
Tình sau ta ở, tình đầu người quên?
Uống cho hết nợ vơi duyên
Lịm trong vô vọng nhớ, quên đôi bờ...
Say cho bay bổng hồn thơ
Say cho câu chữ ngẩn ngơ ý lời
Mai sau cuối đất cùng trời
Trăng ơi! người ngắm rã rời vì trăng !
Hoahuyen (59)
Thứ Tư, 25 tháng 11, 2009
59. CẢM XÚC KHÔNG TÊN
Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2009
Xướnghọa-ThểthơĐườngluật ( Hoahuyen 1 )
Nhân dịp ngày Nhà giáo Việt Nam 20.11 - Hoahuyen xin mở chuyên mục Xướng họa Thơ Đường luật, một thú chơi tao nhã của các bậc tiền nhân xưa... nay vẫn đang nở rộ trên cả nước nhất là những người cao tuổi thường dùng thể thơ này để rèn tâm, trí, đức và thù tạc, phản ánh một phần đời sống tinh thần phong phú " Sống vui, sống khỏe, sống có ích cho đời "... góp phần gìn giữ vốn cổ... kính mong được các bậc cao thâm và các thi hữu gần xa hửng ứng. Hoahuyen |
Thơ mời họa TRỌNG TRÁCH TRÊN VAI Trí thức hơn nhau ở cái đầu Khả năng hiểu biết rộng và sâu Nói hay buông chữ tròn xoe nghĩa Viết sắc rơi từ nhói buốt câu Giỏi hướng tương lai dân sớm thịnh Tài xoay hiện tại nước nhanh giầu Thuyền ra biển lớn cần tài đức Trọng trách trên vai bắc nhịp cầu Laonong(458) (Hoahuyen) |
TRỌNG TRÁCH TRAO AI? | |
Bài họa 1 NHỮNG CHUYẾN ĐÒ NGANG Mỗi chuyến đò ngang vẫn đứng đầu Quản gì sóng cả với nông sâu Dòng tâm luôn thắm tươi màu chữ Nguồn đức vẫn đầy thắp sáng câu Trọn nghiệp vun trồng không hám lợi Suốt đời dâng hiến chẳng ham giầu Miệt mài chở chữ qua sông lớn Mỗi chuyến đò sang tựa chiếc cầu. Lươngthephiet 19.11.2009 Bài họa 2 Khai đường sáng Mấy mươi năm đã nhuốm sương đầu Thầy vẫn tận lòng ước vọng sâu Giúp trẻ dày công mài chữ nghĩa Nắm tay gò viết đẹp từng câu Mai sau đất nước thêm hưng thịnh Ngày đến muôn nơi được sướng giầu Phía trước dù muôn vàn lối khó Khai đường tâm vững hướng qua cầu đông hòa Nguyễn Chí Hiệp 20.11.2009 Bài họa 5 | Bài họa 3 LÃNH ĐẠO Lãnh đạo là luôn biết dẫn đầu Hướng vào lĩnh vực mới cao sâu Đón đầu xu thế không cần đợi Đi trước nhu cầu lọ phải câu Tỉnh táo thì đâu đến nỗi hố Cao mưu chắc hẵn sẽ mau giầu Thị trường mới đúng nơi rèn luyện Tài cán cần ai bắc hộ cầu Hồ Văn Thiện 20.11.2009 Bài họa 4 20.11.2009 Bài họa 6 KHÔNG ĐỀ 2 Cái gì ai cũng đặt trên đầu ? Cao chóp rộng xòe khoét lõm sâu Mắt lớn che nghiêng thò mũi quặm Tai to úp xéo ló cằm câu Ngày thường vênh váo khoe môi quý Tháng hạn lấm le giấu trán giàu Mưa nắng tiết thời nào biết được Lỡ mai gió lớn tọt rơi cầu Bs Tản Học trò trường thuốc |
Bài họa 7 Tài Trí | Bài họa 8 Đồ giả |
Bài họa 9 Tự trào Đường Thi Lúc trắc khi bằng há giỡn chơi
| Bài họa 10 XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG Xướng họa xem ra thấy nhẹ đầu So chi cao thấp luận khơi sâu Mong mang nhân ái gieo thi phú Nguyện lấy vô thường dệt chữ câu Ẩn sĩ khinh danh đời tạo phúc Cao nhân luyện đức nghiệp thêm giàu Tương giao thơ cổ thần an tọa Bạn hữu dung hòa trộm khấn cầu. NICO |
BÌNH THƠ: BÀI HỌA CỦA HADINHCHUNG |
Anh hadinhchung kính, đây là một vài ý kiến nhanh của hoahuyen đối với bài họa của anh: GHI TẠC CÔNG THÀY CÔ Thày ban Trí Đức, tích trong đầu Ngẫm lại cả đời ý thật sâu Trước học lễ nghi thông vạn lẽ Sau rèn chữ nghĩa thấm từng câu Nhân tài giúp nước yên bờ cõi Tiềm lực xây non Tổ Quốc giầu Ghi tạc công ơn thày dạy dỗ Khai nguồn trí tuệ sánh toàn cầu hadinhchung Trong tất cả các bài thi hữu gần xa đã họa thì “ GHI TẠC CÔNG ƠN THÀY CÔ” của Nhà thơ hadinhchung có lẽ theo ý kiến rất riêng ( có thể khác với cảm nhận của một số bạn ) là bài họa hay nhất vì những lý do sau : * Họa = vẽ lại một bức tranh khác cùng đề tài ( có thể đẹp hoặc xấu hơn là do tài năng của người “họa” và có thể đối nghịch lại cả “người xướng” ) * Bài họa đối luật, không phản đề vì : “ Bài họa đã diễn đạt lại được toàn bộ ý chính (nội dung) của bài xướng, không lạc đề. đối luật với bài xướng, vì bài xướng luật trắc - bài họa của Bác hadinhchung luật bằng, họa cùng một tư tưởng đánh giá cao vai trò của trí thức và Nhà giáo đối với xã hội…. Nghiêm túc xét về luật : đây là bài chắc luật, vững liêm, họa và đối khá chỉnh, khó bắt bẻ, 56 chữ chỉ có 2 chữ trùng lặp đó là chữ “Thày” nhưng là 2 chữ “đắt” đúng chỗ, nhấn mạnh và khẳng định vài trò của người Thày trong việc trồng người Trước hết ta xem 2 câu đề : Thày ban Trí Đức, tích trong đầu Ngẫm lại cả đời ý thật sâu Nhiệm vụ chính của người Thày là dạy học và rèn người. dạy học là cho “chữ” tức là cho iến thức để làm hành trang vào đời, mặt khác thày cô còn có nhiệm vụ cực kì quan trọng đó là rèn rũa hình thành nhân cách… đạo đức của học sinh để thực sự trở thành CON NGƯỜI đúng nghĩa có ích cho xã hội – 2 câu đề quá rõ ý, mạch lạc câu văn… Tiếp 2 câu thực : tả thực những việc mà nghề nhà giáo đã được xã hội quy định Trước học lễ nghi thông vạn lẽ Sau rèn chữ nghĩa thấm từng câu “Tiên học lễ hậu học văn” – muốn làm NGƯỜI trước phải thông lễ nghi, hiểu vạn lẽ, uốn nắn từ việc đi, đứng, nói năng, chào hỏi, thưa gửi, kính trên nhường dưới dần dần hình thành con người “đối nhân xử thế chu toàn” Sau học chữ, tích lũy kiến thức để thấm và ngấm từng câu… có ý muốn nói học đến nơi, đến chốn, hiểu cặn kẽ từng vấn đề một cách thấu đáo, khoa học, tránh hời hợt…. Tiếp 2 câu luận : Nhân tài giúp nước yên bờ cõi Tiềm lực xây non Tổ Quốc giầu Một lời bình hay : Khi là người đã có tâm tầm trí, đức thì hằn đó là hiền tài giúp nước cũng chính là tiềm lực xây dựng tổ quốc giàu mạnh – một người hoàn chỉnh lý tưởng có lẽ cần hội đủ các yếu tố: • Tâm trong sáng – Đức cao đẹp - Trí uyên bác – Hành mẫu mực và sống “ cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư “ ( hehehe, khó nhỉ ) Tiếp 2 câu kết : Ghi tạc công ơn thày dạy dỗ Khai nguồn trí tuệ sánh toàn cầu Có lẽ không cần bình nữa vì nó đã rõ như ban ngày Một bài họa thơ đường chỉnh, hay, có tầm tư tưởng lớn, câu văn chau chuốt, bay bổng... chúc bác hadinhchung nhiều cảm xúc cho nàng thơ Hoahuyen 22.11.2009 |
|
Một số kiến thức cơ bản cần thiết về
CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT
» Dịch giả:
» Thể lọai: Biên khảo
» Số lần xem: 276
1. CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận. 1. - Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định. Thí dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau: Trống treo ai dám đánh thùng b. Nào phải là ai dám giục xô
Xuân Khuê Một mong hai đợi bốn ba chờ Phan Mạnh Danh
Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng Những bài thơ minh họa cho các thể thức Họa Thơ. - Hạn đề: - Hạn vận: Bài họa: Nào phải là ai dám giục xô
a. Bài xướng: TƯƠNG TƯ Tương giang hai đứa ở hai nơi Hoàng Thứ Lang
TƯƠNG TƯ Mỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơi Hoàng Thứ Lang b. Họa đảo vận: Bài xướng: TƯƠNG TƯ Tương giang hai đứa ở hai nơi Hoàng Thứ Lang
TƯƠNG TƯ Lất phất bên thềm tuyết trắng rơi Hoàng Thứ Lang c. Họa Hoán Vận: Bài xướng: TƯƠNG TƯ Tương giang hai đứa ở hai nơi Hoàng Thứ Lang
TƯƠNG TƯ Gởi gió nhờ mây nhắn mấy lời Hoàng Thứ Lang d. Họa Tá Vận (mượn vần): Bài xướng: TRUNG THU Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm Hoàng Thứ Lang
XIN XĂM Mẹ dẫn lên chùa để thỉnh xăm Bạch Mai Hoạ thơ Đường luật Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng. Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú. Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối. Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc "khắc lục", là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật. Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề. Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng. Bài xướng: Vườn rau Cẩm Tú Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang Cẩm Tú
Vườn rau Cẩm Tú Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang Hoàng Thứ Lang Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1-2-4-6-8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước. Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó. Khi bạn bè (thi hữu) chung vui xướng hoạ với nhau, có thể dùng thể thức Hoạ Tá Vận (tức là mượn vần) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách nầy không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui vẻ mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề (nội dung của bài xướng). Thí dụ bài Cảm Vịnh Cây Mai xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Đông Hồ. Thông vận, bàng đối và bàng hoạ... Người xưa đã nghiên cứu, cân nhắc rất kỹ càng chu đáo khi đặt ra luật thơ chính luật cho thơ Đường luật. Theo chính luật thì bài thơ sẽ có âm điệu du dương trầm bổng đọc hoặc ngâm nga rất êm tai truyền cảm. Thơ không phải chỉ để đọc mà còn để ngâm vịnh nữa, cho nên âm điệu rất quan trọng vì nó tạo ra nhạc tính cho bài thơ. Do đó người ta nói trong thơ có nhạc trong nhạc có thơ là bởi lẽ đó. Bài thơ mà không tuân theo thanh luật tức là luật về âm thanh hay nói khác đi nếu bài thơ mà không tuân theo luật thơ khi đọc lên thì nghe rất chỏi tai, ngâm vịnh thì bị chỏi miệng trẹo lưỡi mà trong thơ gọi là khổ độc.Tuy nhiên trong một vài trường hợp đặc biệt, có những chữ không thể sửa đổi để khép vào khuôn khổ của luật thơ (chính luật) được. Đó là những chữ thuộc về thành ngữ, điển tích, chuyên ngữ, thuật ngữ, danh từ riêng ... Vì vậy mà người ta đặt thêm luật bất luận để áp dụng cho những trường hợp đặc biệt này. Nhưng luật bất luận cũng có sự qui định chặt chẽ phải tuân theo một cách nghiêm ngặt không thua gì chính luật.Một vài thí dụ về thành ngữ, điển tích, chuyên ngữ, thuật ngữ, danh từ riêng không thể sửa theo chính luật được, như sau: - Thành ngữ: tang điền thương hải, học tài thi mạng, tháo củi sổ lồng ... - Điển tích: kết cỏ ngậm vành, nghiêng nước nghiêng thành, bình rơi trâm gãy ... - Chuyên ngữ, thuật ngữ: tam bộ cửu hậu, tứ chẩn bát cương, cữu hư hoãn bổ ... - Danh từ riêng: Mỵ Châu, Thúy Kiều, Kim Trọng, Đạm Tiên, Bá Nha, Tử Kỳ ...
- Thành ngữ: non thề biển hẹn, quốc phá gia vong, nhà tan cửa nát ... - Điển tích: cử án tề mi, thiên kiều bá mỵ, chim sa cá lặn, hoa tường liễu ngõ ... - Chuyên ngữ, thuật ngữ: tứ chứng nan y, đau chân há miệng, bảng hổ danh đề ... - Danh từ riêng: Ngưu Lang, Chức Nữ, Trương Chi, Trọng Thủy, Lưu Thần, Nguyễn Triệu ...
Sau đây là bảng luật bất luận cho thơ Đường luật chính thể: 1. b - B - t - T - T - B - B (vần)
t - T - b - B - T - T - B (vần)
- Những chữ viết hoa đứng ở vị trí 2-4-5-6-7 của mỗi câu bắt buộc phải giữ theo đúng chính luật. 1. Tôn Phu Nhân Qui Thục Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng Tôn Thọ Tường
Tôn Phu Nhân Qui Thục Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng Phan Văn Trị Ghi chú: đây là 2 bài thơ xướng hoạ nổi tiếng trong văn học sử Việt Nam, chúng ta nhận thấy tác giả áp dụng luật bất luận đúng y như trong phần giải thích ở trên, và dùng cũng rất hạn chế. 2009-03-16 11:30:13 |
Thứ Năm, 19 tháng 11, 2009
438. Hơn nhau ở chỗ TẦM CAO THƯỢNG
438.
Hơn nhau ở chỗ
TẦM CAO THƯỢNG
Chả trách đàn ông giỏi ngứa nghề
Chỉ ham của lạ khoái đồng quê
Hai đầu ngứa ngáy thèm nghiêng ngó
Bốn mắt long lanh thích tỉ tê
Quân tử đàng hoàng têm cánh phượng
Tiểu nhân lén lút thả đàn dê
Hơn nhau ở chỗ tầm cao thượng
Thấy gái anh nào bảo: ... tớ… chê ?
Hoahuyen
19.11.2009
.
Thứ Ba, 17 tháng 11, 2009
433. ĐÊM ĐÔNG VÀO THẾ
433.
ĐÊM ĐÔNG VÀO THẾ
Gió se lành lạnh sắp vào đông
Có gã trai lơ mượn chén nồng
Dựng hứng hồn thơ lay cán bút
Hớ hênh thân xác nhạo Càn Long (*)
Pháo đang vào thế chờ cơ hội
Đạn đã lên nòng đón lệnh thông
Dại dột ba năm hờn suối ngọc
Khôn ngoan một tiếng thế là xong
Hoahuyen
(*)
Rượu Càn Long Ngự Dịch được điều chế từ hơn 20 loại dược liệu quý hiếm của Trung Quốc: Đông trùng hạ thảo, thận hải cẩu, lộc biển, nhân sâm, tam thất, ... Một loại rượu bổ quý
Bài xướng
Thiếu nữ ngủ ngày
Muà hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.
Hồ Xuân Hương
418. CÔNG ƠN CHA MẸ, THẦY CÔ
CÔNG ƠN CHA MẸ, THẦY CÔ
Uốn cây từ lúc nẩy mầm non
Rèn chữ o, a... nắn méo tròn
Nhân cách hình thành do giáo dục
Thầy Cô tất cả chỉ vì con
Tri thức mênh mông như biển cả
Lớn khôn thành đạt nhớ ơn thày
Sinh thành dưỡng dục công cha mẹ
Bệ phóng cho con sải cánh bay
Hoahuyen
431. VẦN THƠ DÂNG THẦY CÔ
VẦN THƠ DÂNG THẦY CÔ
Nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20.11
Uốn cây từ lúc cong... non
Hình thành nhân cách khi còn ngây thơ
Cô ươm hoài bão, ước mơ
Thày nâng đôi cánh từng giờ bay cao
Cho tri thức, vượt gian lao
Niềm tin, tâm, đức khát khao làm người
Mười năm chăm tốt cây tươi
Trăm năm mới có lớp người hồng chuyên (*)
Gia đình là chốn bình yên
Nhà trường mảnh đất gieo hiền tài cao
Môi trường xã hội thanh tao
Lung linh hương sắc xiết bao ân tình
Thày cô dạy dỗ hết mình
Cho em tô đẹp dáng hình nước non
Tim em tạc tượng vàng son
"Tôn sư trọng đạo" vuông tròn giấc mơ
Mái đầu nay đã bạc phơ
Trào dâng cảm xúc vần thơ dâng Thày
Nhớ lời Người dậy: trồng cây
Trăm năn lợi ích phải xây trồng người (**)
Hoahuyen (431)
17.11.2009
Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2009
28. ƠN THÀY CÔ
ƠN THÀY CÔ
Chúc các Thầy, Cô
Nhân ngày nhà giáo 20/11
Tuổi thơ cắp sách tới trường
Dùng dằng kỷ niệm vẫn còn theo ta
Nhớ thời từng chữ ê, a
”O” tròn như quả trứng gà… nhà em
Chữ ”I” như thể que kem
Rắn toàn nước đá vẫn thèm mấy que
Mái đầu nắng đỏ tóc hoe
Suốt ngày lặn ngụp trên bè, dưới sông
Những ngày hè nghỉ… lông nhông
Trèo me, hái ổi tồng ngồng rong chơi
Nhớ thời đỏ xác phượng rơi
Sân trường ríu rít tiếng cười giòn tan
Câu thơ ai viết trên bàn ?
Chữ lồng tên khắc… gốc bàng còn đây
Bao năm đèn sách đêm ngày
Rèn tâm, trí, đức Cô thày bày cho
Nẩy mầm khao khát ước mơ
Niềm tin cháy bỏng từng giờ… bay cao
Công thành, danh thỏa khát khao
”Tôn sư trọng đạo” ai nào dám quên
Hoahuyen
Thứ Tư, 11 tháng 11, 2009
410. THÈM CŨNG CHỊU
410.
THÈM CŨNG CHỊU
Hớ hênh nom rõ cả hai... đồi
Thây lẩy bồng bềnh dụ dỗ tôi
Giần giật tâm hồn chưa muốn dứt
Lâng lâng thể xác chửa thèm thôi
Khi còn son trẻ vung thừa sức
Để lúc già nua tiếc đứt hơi
Giờ có cho không... ông cũng chịu
Mó may đôi chút gọi là chơi
Hoahuyen
Bai xuong
Gửi ông Lương Hữu Chí
Tạ ông Lương Chí ở trên đồi
Đã có lời mừng sách lẫn tôi
Bốn tập "Bóng chiều" sờ lộm cộm
Bảy mươi "mùa lá" ngó lôi thôi
Cao mèo bạn biếu đà tiêu hóa
Thơ thẩn cụ cho để xả hơi
Bóng xế đã vào hồi chập choạng
Văn vo có tí cũng mần chơi
Hồ Văn Thiện
17-10-2009
.
403. NGHỀ CAO QUÝ
NGHỀ CAO QUÝ
Hai nghề cao quý em ơi!
Lương y - Nhà giáo người đời đều mê
Cổ kim kính cẩn khen, chê
Nghề vì dân chúng tứ bề lo toan
Cứu nhân độ thế chứa chan ân tình
Cái nghề phải biết hy sinh
Không màng danh vọng, nhục vinh coi thường
Môi trường... hữu xạ... nhiên hương
Đối nhân xử thế yêu thương thật lòng
Uốn cây từ lúc non cong
Chữa người khỏi bệnh là lòng mừng vui
398. LÀ CON GÌ NHỈ ?
Thứ Ba, 10 tháng 11, 2009
395. NẾU BỐ CÒN SAY
395.
NẾU BỐ CÒN SAY
Bố ơi! đừng nhậu suốt đêm ngày
Be bét rượu chè… xỉn quắt quay
Quần áo lôi thôi như giẻ rách
Đầu bù tóc rối tựa bèo mây
Tương lai sẽ khổ khi không tỉnh
Hiện tại đang hèn bởi vẫn say
Nghèo rớt mồng tơi, thêm gánh nợ
Vợ con nheo nhóc, xác thân gày
hoahuyen
Bài xuớng
Mẹ
Mẹ đong năm tháng bước qua ngày
Nắng xối mưa gào với gió quay
Khi tính chắt chiu từng hạt nắng
Lúc lo gom nhặt những làn mây
Đầu làng chạng vạng cơn mê tỉnh
Cuối bãi chập chờn giấc ngủ say
Lầm lũi lưng còng run rẻ mạ
Cho con no đủ- mẹ hao gầy
luongthephiet
Thứ Hai, 9 tháng 11, 2009
394. KHIẾU “TẾU”
Thứ Năm, 5 tháng 11, 2009
393. TA ĐI TÌM TA
TA ĐI TÌM TA
Mới hay nhan sắc do trời
Dại khôn na nết do người rèn nên
Vĩ nhân để lại tuổi tên
Ngàn năm danh tiếng vang rền ngân xa
Kẻ thì chết hóa ra ma
Chưa khô dòng lệ hương hoa đã tàn
Long lanh hạt cát này vàng
Hạt kia đen trũi phũ phàng nhom nhem
Người thì chẳng muốn ngợi khen?
Kẻ thì khoan khoái bon chen với đời
Người thì mê mẩn rong chơi
Kẻ thì lăn lộn rối bời ăn thua
Người thì bán thánh buôn vua ?
Kẻ muốn lên chùa đi quét lá đa ?
Còn ta mải miết tìm ta
Hữu danh vô thực là nhà… linh tinh(*)
Đối nhân chỉ có cái tình
Tri âm tri kỷ… nhục vinh coi thường
Vòng tay bè bạn muôn phương
Còn chăng vài chữ nhả hương cho đời
Ta là thế đấy… giàng ơi!
Hoahuyen
(*)các loại nhà : Nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo...
392. SẮC HƯƠNG DÙ NHẠT VẪN YÊU
SẮC HƯƠNG
DÙ NHẠT VẪN YÊU
Chênh chao vành nón nghiêng che
Nắng chan hòa nắng ấp e gợi tình
Mắt ngời khoe dáng eo xinh
Hiền nhân, quân tử rập rình ngó trông
Khôn thì kén vợ chợ đông
Ba quân dễ chọn ra chồng qúy yêu
Ngày lành sáp lại... chung niêu
Chung chăn, chung gối sớm chiều bên nhau
Yêu nhiều nước mắt dễ mau
Ghen tuông khôn khéo vừa đau... thì dừng
Ở đời đôi lúc xỉa xưng
Bát xô, đĩa lệch... cũng đừng âu lo
Đã yêu là hiến dâng cho
Khổ đau ráng chịu... nhằn nhò chi em !?
Khôn ngoan miệng dẻo, môi mềm
Hai đầu phải cứng là êm cửa nhà
Nắng mưa từng đã trải qua
Dù hương có nhạt, sắc nhòa vẫn yêu
Hoahuyen
05.11.2009
***
391. ƯỚC MƠ GIẢN DỊ
ƯỚC MƠ GIẢN DỊ
Tuổi thơ tôi sống ở trên sông
Thèm nếp nhà tranh, bếp lửa nồng
Sáng đến trường làng cô giáo đợi
Chiều về tới ngõ, Mẹ già mong
Dưới giàn thiên lý môi e thẹn
Bên dậu mồng tơi má ửng hồng
Đến tuổi lên đường ra mặt trận
Xa nhau mòn mỏi vẫn phòng không ?
Hoahuyen
05.11.2009
390. VŨ KHÚC GIAO MÙA
VŨ KHÚC GIAO MÙA
Lặng nghe xao xác hương chiều
Tiếng đêm se sắt vơi nhiều phải chi ?
Nhẹ nhàng rảo gót chân đi
Thấy thu lấp ló thương gì nhớ ai?
Thức lâu cả vú đêm dài
Lay hoay tình tự sớm mai sẫm màu
Nói lời xa tít đẩu đâu
Gió se giá lạnh vờn nhau kẽ lùa
Thôi thì ngọt nhạt chanh chua
Vu vơ gom lại thêu thùa ất ơ
Cô đơn nghĩ ngợi vẩn vơ
Cả đời rong duổi khù khờ lại qua
Cầm lòng chẳng đặng vỡ òa
Giọt thương, giọt nhớ nhạt nhòa ấp nhau
Gối chăn thảng thốt nhăn nhàu
Tàn đêm trăng xõa dìu nhau luân hồi
Kìa đông đã đến bên rồi
Rét run lẩy bẩy nắng trôi gió về
Rèm buông kín mít em che
Nhành trơ, nõn nhú thầm nghe túa lùa
Năm canh tiếng mõ nhẹ khua
Thu qua, đông tới te tua nỗi buồn
Sầu lòng chớ ướt mi tuôn
Khi nàng xuân đến u buồn tiêu tan
Hoahuyen
04.11.2009
Thứ Tư, 4 tháng 11, 2009
389. ĐỈNH VUI
389.
ĐỈNH VUI
Vui về hớn hở đùa chen
Buồn bay náo loạn khô hoen ố ngầu.
Vơi đi, đi tất sầu đau
Trời cao biển rộng hay đâu... thế này
Ta mời nàng chén say đây
Vui cho thỏa sức tới ngày vàng khô?
Trâm anh sao lõa dám lồ
Đã qua kiếp nạn môi gồ giòn nong
Lênh đênh bèo dạt xuôi dòng
Đỏ lòe đuôi mép, mắt đong ướt sầu
Qua thời chớt nhả tay gầu
Tát trăng khuya muộn mấy chầu giăng em?
Tiểu nhân thường thích đua chen
Người quân tử kính kề bên nỏ sầu
Dẫu cho tuổi chớm bạc đầu
Buồm tung cánh gió tươi màu trùng khơi
Bên nàng ta chỉ vui thôi
Vần gieo ý thỏa cho Đời- Tình - Thơ!
Hoahuyen
388. TÍCH CŨ CHUYỆN XƯA
388.
TÍCH CŨ CHUYỆN XƯA
( Tiên Dung - Chử Đồng Tử )
Tích cũ ngày xưa chuyện dưới trần
Có nàng công chúa cưới bần dân
Tiên Dung đang tắm quen giai chử(1)
Đồng tử cởi truồng gặp mỹ nhân
Duyên kết se duyên sung sướng đến
Phước gieo mầm phước khổ xa dần
Mới hay số phận do trời định
Đến cõi bồng lai cũng rất gần
Hoahuyen
04.11.2009
(1) Trai làng Chử Xá
***
Tương truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại Chử Xá (huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (có bản viết là Chử Vi Vân. Theo "Việt sử Giai Thọai" của Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo dục).Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.
Thời ấy vua Hùng Vương thứ ba có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập,phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung-Chử Đồng Tử làm chúa (Theo "Việt sử Giai Thọai" của Nguyễn Khắc Thuần-NXB Giáo dục). Một hôm có người bày cho cách ra ngòai buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Tiên (có bản ghi là Quỳnh Vi - tham khảo "Việt sử Giai thọai" Chuyện kể Chử Đồng Tử) Đây là tên một ngọn núi chỉ có trong thần thọai),Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.
Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dân hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.
Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời.Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.
Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là chợ Hà Thị.
387. GHÉ THĂM LỤC BÁT MÀ SAY
GHÉ THĂM
LỤC BÁT MÀ SAY
Ghé thăm lục bát mà say
Chạm vần như thể ớt cay, cay sè
Lượn qua, lượn lại nhăm nhe
Con tim lọan nhịp ngo ngoe phập phồng
Biết nàng thơ "lục"… chưa chồng
Vào thăm chỉ "bát" xa trông lại về
Tần ngần chẳng dám a… ê
Quay đi thì tiếc tái tê u sầu
Long đong chìm nổi bể dâu
Đành liều cũng lục vài câu bát à
Hoahuyen
Thứ Ba, 3 tháng 11, 2009
386. Đá bỗng gieo vần
Đá bỗng gieo vần
Thiên nhiên sắp đặt mấy ai ngờ
Đá bỗng gieo vần nẩy ý thơ
Giây phút thăng hoa giần giật đến
Nôn nao cảm xúc sóng xô bờ
Núi non uyên bác tài xiên xỏ
Chớp(*) thế hiên ngang cảnh ỡm ờ
Dám hỏi ai nhìn không nổi hứng ?
Này em đừng ngắm… dễ nằm mơ
Hoahuyen
02.11.2009
(*)Đây là bức hình do Lão hâm ( PCT ) chụp trong chuyến cùng cả gia đình hành hương ngao du “Đảo Kê Gà thuộc xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận”
Mời xem thêm bài của anh PCT ở đây
***
Thứ Hai, 2 tháng 11, 2009
385. HÃY MAU TỈNH NGỘ
Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2009
671. Hội ngộ tri âm
671.
Hội ngộ tri âm
Một buổi nhâm nhi, nói chuyện đời
Nỗi niềm chia sẻ mãi không vơi
Thơ văn, thế sự, tinh thần sống
Con cái, bạn bầu, kiểu cách chơi
Triết lý nhân sinh... xoay số phận
Giản đơn quy luật... lựa thiên thời
Lắng nghe sàng lọc bao điều lạ
Đến phút chia tay chẳng muốn rời
Hoahuyen
01.11.2009
(*) Kỷ niệm lần gặp gỡ anh PCT với anh em hội blogers Saigon
trưa 31.10.2009 và một buổi chiều đầy ấn tượng khi chỉ còn 3 anh em
(Lãohâm uyên bác, Ts Hoàng Kim "người tốt một cách cổ điển còn sót lại"
và Hoahuyen lãng tử ) tâm tình cho đến 19h30 trước khi lão hâm bay ra hanoi
Mời các bạn xem bài : " Đã mến yêu nhau chẳng muốn rời "